4 nhiệm vụ của Tâm lý học và các quan điểm trong Tâm lý học
Đâu là 4 nhiệm vụ của Tâm lý học mà bất cứ ai cũng cần biết? Như chúng ta đã biết, Tâm lý học là một ngành phức tạp và có nhiều sự thú vị. Và các nhiệm vụ của ngành này là gì? Chúng ta hãy cùng nhau đào sâu nhé!
Đối tượng của Tâm lý học
Trước khi tìm hiểu 4 nhiệm vụ của Tâm lý học, chúng ta cần biết đối tượng của ngành này là ai. Trong tác phẩm “Phép biện chứng của tự nhiên” Ph. Ăngghen đã nói rõ rằng thế giới luôn vận động. Các khoa học cũng phân tích các dạng vận động của thế giới tự nhiên thuộc về nhóm Khoa học tự nhiên.
Các khoa học phân tích các dạng vận động của xã hội thuộc về nhóm các khoa học xã hội. Các khoa học nghiên cứu các dạng vận động chuyển tiếp trung gian, từ dạng vận động này sang dạng vận động khác được gọi là các khoa học trung gian. Điển hình như lý sinh học, hóa sinh học, tâm lí học,…
Trong đó, Tâm lý học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật sang vận động xã hội. Và nghiên cứu từ thế giới khách quan vào mỗi con người sinh ra hiện tượng tâm lý – với tư cách một hiện tượng tinh thần.
Trong lịch sử xa xưa, trong tiếng Latinh: “Psyche” là “linh hồn”, tinh thần” và “logos” là “học thuyết”, là “khoa học”. Vì thế “Tâm lí học (Psychologie) là khoa học về tâm hồn. Nói một cách khái quát nhất: Tâm lý bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người. Nó gắn liền và điều hành mọi hành động và hoạt động ủa con người. Các hiện tượng tâm lý đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống con người, trong quan hệ giữa con người với nhau hoặc con người với cả xã hội loài người.
Như vậy, đối tượng của Tâm lý học là các hiện tượng tâm lý với tư cách là một hiện tượng tinh thần. Chủ yếu là do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh ra. Chúng được gọi chung là các hoạt động về tâm lý. Tâm lý học nghiên cứu về sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm lý.
4 Nhiệm vụ chính của Tâm lý học
Vậy đâu là 4 Nhiệm vụ Chính của Tâm lý học?Tâm lý học, với tư cách là một khoa học xã hội, có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu. Nhất là hiểu rõ về hành vi, suy nghĩ và cảm xúc của con người. Để đạt được mục đích này, tâm lý học tập trung vào 4 nhiệm vụ chính sau:
Mô tả (Description):
Mục tiêu: Quan sát, ghi chép và phân loại các hiện tượng tâm lý một cách chi tiết và chính xác.
Ví dụ:
- Mô tả các biểu hiện của một người đang trải qua trạng thái lo âu.
- Phân loại các kiểu tính cách khác nhau.
- Nghiên cứu các hành vi xã hội trong các tình huống cụ thể.
Giải thích (Explanation):
Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa dẫn đến các hiện tượng tâm lý, xây dựng các lý thuyết và mô hình để giải thích chúng.
Ví dụ:
- Giải thích tại sao con người có xu hướng bắt chước những người xung quanh.
- Tìm hiểu các yếu tố sinh học và môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển của trí tuệ.
- Xây dựng các mô hình để dự đoán hành vi của con người trong các tình huống khác nhau.
Dự đoán (Prediction):
Mục tiêu: Dựa trên các kiến thức đã thu thập được, dự đoán những gì có thể xảy ra trong tương lai liên quan đến các hiện tượng tâm lý.
Ví dụ:
- Dự đoán khả năng thành công của một người trong một công việc nhất định dựa trên các đặc điểm tính cách của họ.
- Dự báo xu hướng hành vi của một nhóm người trong một tình huống xã hội cụ thể.
Thay đổi (Change):
Mục tiêu: Áp dụng kiến thức tâm lý học để giúp con người vượt qua khó khăn, phát triển bản thân và cải thiện cuộc sống.
Ví dụ:
- Phát triển các phương pháp trị liệu để giúp người bệnh vượt qua các rối loạn tâm lý.
- Thiết kế các chương trình đào tạo để nâng cao hiệu quả làm việc của nhân viên.
- Tư vấn cho cá nhân và gia đình để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Tóm lại, 4 nhiệm vụ này tạo nên một vòng tròn liên kết chặt chẽ trong quá trình nghiên cứu Tâm lý học. Bằng cách mô tả, giải thích, dự đoán và thay đổi các hiện tượng tâm lý, Tâm lý học đóng góp vào việc nâng cao hiểu biết về bản thân và xã hội. Đồng thời, nó giúp con người sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Các quan điểm cơ bản trong Tâm lý học hiện đại
Sau đây là một số quan điểm cơ bản trong Tâm lý học hiện đại:
Tâm lý học hành vi
Chủ nghĩa hành vi do nhà Tâm lý học Mĩ J. Oatsơn (1878 – 1958) sáng lập. J. Oatsơn cho rằng Tâm lí học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà nó chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể của con người và động vật. Hành vi này được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh trong cơ thể. Qua đó đáp lại một kích thích nào đó. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật thể hiện bằng công thức:
S – R
(Stimulus – Reaction)
Kích thích – Phản ứng
Với Công thức trên, J. Oatsơn đã nêu lên quan điểm tiến bộ trong Tâm lý học: Coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định. Hành vi đó có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan. Từ đó, nó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử – sai”.
Thế nhưng chủ nghĩa hành vi đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi. Nó đánh đồng hành vi của con người và hành vi của con vật. Hành vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm đáp lại kích thích, giúp cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Chủ nghĩa hành vi đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lý bên trong làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lý con người.
Nó đồng nhất tâm lý con người với tâm lý động vật. Và con người chỉ phản ứng trong thế giới một cách cơ học, máy móc. Đây chính là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng.
Tâm lý học Gestall (Tâm lý học cấu trúc)
Dòng phái này được ra đời ở Đức, gắn liền với tên tuổi các nhà Tâm lí học: Vécthaimơ (1880 – 1943), Côlơ (1887 – 1967), Côpca (1886 – 1947). Họ đi sâu vào nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác. Và nghiên cứu về quy luật “bừng sáng” của tư duy.
Trên cơ sở thực nghiệm, các nhà Tâm lý học Gestalt khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lí của con người do cấu trúc tiền định của não quyết định. Các nhà Tâm lý học Gestalt ít chú ý đến vai trò của kinh nghiệm sống hay kinh nghiệm xã hội lịch sử.
Phân tâm học
Thuyết phân tâm do S. Phrơt (1859 – 1939), một bác sĩ người áo xây dựng nên. Luận điểm cơ bản của Phrơt là tách con người thành 3khối: Cái ấy (cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục và tự vệ.
Trong đó, bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người. Cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thoả mãn và đòi hỏi: Cái tôi – con người thường ngày, con người có ý thức tồn tại theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức theo Phrớt là cái tôi giả hiệu, là cái tôi bề ngoài của cái nhân lõi bên trong là “cái ấy”. Cái siêu tôi – là cái siêu phàm, “cái tôi lí tưởng” không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt và chèn ép.
Như vậy, phân tâm học đã đề cao quá cái bản năng vô thức dẫn đến phủ nhận ý thức. Nó phủ nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lý con người và đồng nhất tâm lý của con người với tâm lý loài vật. Học thuyết Phrớt là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh và thể hiện quan điểm sinh vật hóa tâm lý con người.
Tâm lý học nhân văn
Dòng phái Tâm lý học nhân văn do C. Rôgiơ (1902 – 1987) và Maslow (1908 – 1972) sáng lập. Các nhà âm lí học nhân văn quan niệm rằng bản chất con người vốn tốt đẹp, con người có lòng vị tha và có tiềm năng kì diệu.
Maslow đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xét thứ tự từ thấp đến cao:
- Nhu cầu sinh lí cơ bản
- Nhu cầu an toàn
- Nhu cầu về quan hệ xã hội
- Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ
- Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt
Rôgiơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị, biết lắng nghe, chờ đợi và cảm thông với nhau. Tâm lý học cần phải giúp cho con người tìm được bản ngã đích thực của mình. Qua đó họ có thể sống một cách thoải mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo.
Tuy nhiên, tâm lý học nhân văn đề cao những điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi người. Nó tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng bên trong con người. Vì thế nó thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn.
Tâm lý học nhận thức
Hai đại biểu nổi tiếng của Tâm lí học nhận thức là G. Piagiê (1896 – 1980) (Thuỵ Sĩ) và G. Brunơ (trước ở Mĩ, sau đó ở Anh). Tâm lý học nhận thức xem hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình. Đặc điểm tiến bộ của dòng phái Tâm lý học này là nghiên cứu tâm lý con người. Nó nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và não bộ.
Vì thế, họ đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ,… Nó làm cho các lĩnh vực nghiên cứu nói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời họ cũng đã xây dựng được nhiều phương pháp nghiên cứu đóng góp cho khoa học tâm lý ở những năm 50 – 60 của thế kỉ XX.
Tuy nhiên dòng phái này cũng có những mặt hạn chế. Họ coi nhận thức của con người là sự nỗ lực của ý chí để đưa đến sự thay đổi vốn kinh nghiệm và vốn tri thức của chủ thể. Qua đó nhằm thích nghi, cân bằng với thế giới, chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt động nhận thức.
Tâm lý học hoạt động
Dòng phái tâm lí học này do các nhà tâm lí học Xô viết sáng lập như L.X. Vưgốtxki (1896 – 1934), X.L. Rubinstêin (1902 – 1960), A.N. Lêônchiép (1903 – 1979), A.R. Luria (1902 – 1977),…
Đây là dòng phái Tâm lí học lấy triết học Mác – Lênin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận. Nó xây dựng nền Tâm lý học lịch sử người: XemtTâm lý học là sự phản ánh thế giới khách quan vào não, thông qua hoạt động.
Trường phái này nghiên cứu các nhánh bên trong như: Tâm lý người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội. Tâm lý người được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Chính vì thế, Tâm lý học mácxit được gọi là “Tâm lý học hoạt động”.
Và đó là những gì mà bạn cần biết về 4 nhiệm vụ của Tâm lý học. Hiện nay, VinUni có đào tạo Cử nhân ngành Tâm lý học với nội dung chuyên sâu và thực tiễn. Sinh viên sẽ được học kỹ về nền tảng, tăng khả năng tư duy, thấu hiểu về con người. Từ đó, sinh viên sẽ có một con đường sự nghiệp thành công với ngành Tâm lý học hơn.