Ý nghĩa của 10 nguyên lý kinh tế học như thế nào?

05/09/2023

Nguyên lý cơ bản của Kinh tế học là gì? Ý nghĩa của 10 nguyên lý Kinh tế học được thể hiện ra sao? Hãy cùng VinUni nghiên cứu và tìm hiểu kỹ hơn trong bài viết sau đây nhé!

y-nghia-cua-10-nguyen-ly-kinh-te-hoc-hinh-1

Kinh tế học là lĩnh vực nghiên cứu về cách xã hội quản lý các nguồn lực khan hiếm.

Các nguyên lý cơ bản của Kinh tế học là gì?

Kinh tế học là lĩnh vực nghiên cứu về cách xã hội quản lý các nguồn lực khan hiếm của nó hoặc nghiên cứu về cách mà xã hội đáp ứng nhu cầu cần thiết và mong muốn không giới hạn của mình đối với các nguồn lực hạn chế của nó.

Các nguyên lý cơ bản của Kinh tế học là tổng hợp các quy luật tổng quát, ý tưởng khởi đầu về ngành Kinh tế học để trả lời cho câu hỏi: Con người đưa ra quyết định như thế nào? Các nguyên lý cơ bản của ngành Kinh tế học này được thể hiện trong cuốn “Những nguyên lý của Kinh tế học”, do nhà Kinh tế học tên Mankiw- giáo sư tại Đại học Haward biên soạn và phát hành.

y-nghia-cua-10-nguyen-ly-kinh-te-hoc-hinh-2

Các nguyên lý cơ bản của Kinh tế học là tổng hợp các quy luật tổng quát, ý tưởng về kinh tế

Nội dung của 10 nguyên lý cơ bản Kinh tế học

Dưới đây là nội dung và ý nghĩa của 10 nguyên lý Kinh tế học cơ bản cho bạn tham khảo:

Nguyên lý 1: Con người bắt buộc đối mặt với sự đánh đổi

Nguyên lý này có thể hiểu tóm gọn trong một câu: “Không có một bữa ăn trưa nào là miễn phí cả”. Muốn có được thứ mà mình ưa thích, điều chúng ta cần phải làm là thường phải từ bỏ một thứ khác mà mình thích. Do đó, ra quyết định đòi hỏi người đó phải đánh đổi mục tiêu này để đạt được một mục tiêu khác.

Chúng ta hãy xem xét ví du về tình huống một cô sinh viên phải quyết định phân bổ thời gian của cô. Cô có thể dùng hết thời gian để nghiên cứu toán học, dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu sinh học, hoặc chia thời gian đồng đều cho hai môn học đó. Vậy đối với mỗi giờ học môn này, cô bạn này phải từ bỏ một giờ học môn kia. Đối với mỗi giờ dành cho việc học, cô phải từ bỏ một giờ mà lẽ ra cô có thể nghỉ ngơi, đạp xe, xem TV hoặc đi làm thêm. Hoặc hãy xem xét cách thức quyết định về chi tiêu thu nhập của gia đình của các bậc phụ huynh. Họ có thể mua thực phẩm, quần áo hay đưa cả nhà đi nghỉ. Họ cũng có thể ra quyết định tiết kiệm một phần thu nhập cho lúc về già hay cho con cái vào học đại học. Khi quyết định chi tiêu thêm một đồng cho một trong những hàng hóa trên, họ có ít đi để chi cho các loại hàng hóa khác. Khi con người tập hợp nhau lại thành xã hội, họ phải đối mặt với nhiều loại đánh đổi.

Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là cái mà bạn từ bỏ để có được nó

Vì con người đối mặt với sự đánh đổi như phân tích ở nguyên lý 1, nên việc đưa ra quyết định đòi hỏi con người phải so sánh chi phí và ích lợi của các đường lối hành động khác nhau. Song trong nhiều tình huống, chi phí của một quyết định nào đó không phải lúc nào cũng rõ ràng như biểu hiện ban đầu của chúng. Chẳng hạn, chúng ta xem xét quyết định có nên đi học đại học hay không. Lợi ích là làm giàu thêm kiến thức và có được cơ hội tìm việc làm tốt hơn trong cả cuộc đời. Nhưng chi phí để có được nó là gì? Để trả lời câu hỏi này, bạn có thể cộng số tiền chi tiêu cho học phí, sách vở, nhà ở lại với nhau. Nhưng tổng số tiền này không thực sự thể hiện những gì bạn từ bỏ để theo học một năm ở trường đại học. Câu trả lời trên không đúng hoàn toàn vì nó bao gồm cả một số thứ không thực sự là chi phí của việc học đại học.

Nguyên lý 3: Con người duy lý suy nghĩ tại điểm cận biên

Các quyết định của bạn trong cuộc sống rất ít khi rõ ràng, mà thường ở trạng thái mù mờ. Khi đến kỳ thi, vấn đềcủa bạn không phải là bỏ mặc bài vở hoặc học 24 giờ một ngày, mà là nên học thêm một, hai giờ nữa hay dừng lại để xem ti vi. Các nhà Kinh tế học sử dụng thuật ngữ những thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh gia tăng nhỏ so với kế hoạch hành động hiện tại. Bạn hãy luôn luôn nhớ rằng “cận biên” nghĩa là “bên cạnh” và bởi vậy việc thay đổi cận biên là những bước điều chỉnh ở vùng lân cận của cái mà bạn đang phải làm. Trong một số tình huống, mọi người cần đưa ra được quyết định tốt nhất nhờ suy nghĩ tại điểm cận biên.

Nguyên lý 4:  Con người phản ứng với các kích thích

Ví dụ khi giá táo tăng lên, mọi người sẽ quyết định ăn nhiều lê hơn và giảm táo lại, vì chi phí mua táo cao hơn. Trong khi đó, người trồng táo lại quyết định thuê thêm công nhân để thu hoạch nhiều táo hơn vì lợi nhuận thu được từ việc bán táo cũng cao hơn. Như vậy, tác động của giá cả lên hành vi của người mua và người bán trên thị trường – trong trường hợp này là thị trường táo – có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu phương thức vận hành của cả nền kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách công cộng không bao giờ được quên các yếu tố kích thích, vì nhiều chính sách tác động làm thay đổi ích lợi hoặc chi phí mà mọi người phải đối mặt và bởi vậy làm thay đổi hành vi của họ.

y-nghia-cua-10-nguyen-ly-kinh-te-hoc-hinh-3

Con người phản ứng với các kích thích liên quan đến lợi ích kinh tế

Nguyên lý 5 : Thương mại có thể làm cho mọi người đều được lợi

Thương mại cho phép con người tập trung chuyên môn hóa vào một lĩnh vực mà mình làm tốt nhất, cho dù đó là trồng trọt, may mặc hay xây dựng. Thông qua hoạt động thương mại với những người khác, con người có thể mua được những loại hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn với mức chi phí thấp hơn. Cũng như các gia đình, các nước thu lợi từ khả năng trao đổi hàng hóa với các nước khác. Thương mại cho phép các nước chuyên môn hóa vào lĩnh vực mà họ làm tốt nhất và sử dụng nhiều hàng hóa và dịch vụ phong phú hơn.

Nguyên lý 6: Thị trường thường là một phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quyết định của những người làm kế hoạch trung ương được thay thế bằng quyết định của hàng triệu doanh nghiệp và hộ gia đình cộng lại. Các doanh nghiệp có quyền quyết định thuê ai và sản xuất cái gì. Các hộ gia đình có thể quyết định làm việc cho doanh nghiệp nào và mua cái gì bằng chính thu nhập của mình. Các doanh nghiệp và hộ gia đình có thể tương tác trực tiếp với nhau trên thị trường, nơi mà giá cả và ích lợi riêng định hướng cho các quyết định của họ. Mới nghe qua thì thành công của các nền kinh tế thị trường thật khó hiểu. Xét cho cùng thì trong nền kinh tế thị trường hiện nay, không ai phụng sự cho phúc lợi của toàn xã hội. Thị trường tự do bao gồm nhiều người mua và người bán nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau, và tất cả mọi người quan tâm trước hết đến phúc lợi riêng của chính họ. Song cho dù ra quyết định có tính chất phân tán, nhỏ lẻ và những người quyết định chỉ quan tâm tới ích lợi riêng của mình, nền kinh tế thị trường đã chứng tỏ sự thành công trong việc tổ chức hoạt động kinh tế theo hướng thúc đẩy phúc lợi kinh tế chung.

Nguyên lý 7: Đôi khi chính phủ có thể cải thiện được kết cục thị trường

Thị trường chỉ hoạt động nếu như quyền sở hữu của cá nhân được tôn trọng. Một nông dân sẽ không bỏ công sức trồng lúa nếu như anh ta nghĩ rằng mùa màng sẽ bị đánh cắp, một nhà hàng sẽ không phục vụ thực khách trừ khi được đảm bảo rằng khách hàng sẽ trả tiền trước khi rời khỏi quán. Tất cả chúng ta đều dựa vào lực lượng công an và tòa án do chính phủ cung cấp để thực thi quyền của chúng ta đối với những sản phẩm do chúng ta tạo ra. Một lý do khác cần đến chính phủ là mặc dù thị trường thường là một phương thức tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế, nhưng quy tắc vẫn có một vài ngoại lệ quan trọng. Có hai nguyên nhân chủ yếu để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế là: thúc đẩy hiệu quả và sự công bằng kinh tế. Nghĩa là hầu hết các chính sách hiện nay đều hoặc nhằm vào mục tiêu làm cho chiếc bánh kinh tế lớn dần lên, hoặc làm thay đổi phương thức phân chia chiếc bánh đó. Bàn tay vô hình thường dẫn dắt thị trường phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả nhất. Song cũng vì các nguyên nhân khác nhau, đôi khi bàn tay vô hình đó không hoạt động.

Nguyên lý 8: Mức sống của một quốc gia phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nước đó

Khác biệt về mức sống có nguyên nhân từ sự khác nhau về năng suất lao động của các quốc gia – nghĩa là số lượng hàng hóa được làm ra trong một giờ lao động của một nhân công. Ở những quốc gia người lao động sản xuất được lượng sản phẩm và dịch vụ lớn hơn trong một đơn vị thời gian nhất định, hầu hết người dân lại được hưởng mức sống cao; còn ở các quốc gia có năng suất thấp hơn, hầu hết người dân phải chịu cuộc sống đạm bạc. Tương tự như vậy, tốc độ tăng năng suất của một nước quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người của quốc gia đó. Mối quan hệ cơ bản giữa năng suất và mức sống khá dễ hiểu, nhưng có những hàm ý sâu rộng bên trong. Nếu năng suất là yếu tố thiết yếu quyết định mức sống, thì những lý do khác phải giữ vai trò thứ yếu.

Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền

Vào tháng 1 năm 1921, giá một tờ nhật báo ở nước Đức là 0,3 mác. Chưa đầy hai năm sau, vào tháng 11 năm 1922 cũng tờ báo ấy lại có giá giá 70.000.000 mác. Giá của tất cả các mặt hàng khác trong nền kinh tế Đức cũng tăng với tốc độ tương tự. Đây là một trong những ví dụ điển hình nhất lịch sử về lạm phát – tức sự gia tăng của các mức giá chung trong nền kinh tế một quốc gia. Mặc dù nước Mỹ chưa từng trải qua cuộc lạm phát nào tương tự như Đức vào những năm 1920, nhưng đôi khi lạm phát cũng là một vấn đề trong nền kinh tế nước này. Ví dụ trong những năm 1970, mức giá chung tăng gấp hai lần và tổng thống Gerald Ford đã gọi tình trạng lạm phát là “kẻ thù số một của công chúng”. Ngược lại, lạm phát trong những năm 1990 chỉ còn khoảng 3% một năm; với tỷ lệ này, giá cả phải mất hơn hai mươi năm để có thể tăng gấp đôi. Vì lạm phát cao gây nhiều tổn thất cho toàn xã hội, nên giữ cho lạm phát ở mức thấp là một mục tiêu chính của các nhà hoạch định chính sách kinh tế trên toàn thế giới.

Nguyên lý 10: Xã hội đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa việc lạm phát và thất nghiệp

Nếu dễ dàng lý giải lạm phát như vậy, thì tại sao đôi khi các nhà hoạch định chính sách các quốc gia vẫn gặp rắc rối trong việc chèo lái con thuyền nền kinh tế. Một lý do là người ta nghĩ rằng việc giảm lạm phát thường dẫn đến tình trạng gia tăng tạm thời của thất nghiệp. Đường minh họa cho sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát được gọi là đường Phillips, để ghi nhận công lao của nhà kinh tế đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ này. Đường Phillips vẫn còn là một đề tài gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế, nhưng hiện nay đa số các nhà kinh tế đều chấp nhận ý kiến cho rằng có sự đánh đổi ngắn hạn đáng kể giữa lạm phát và thất nghiệp. Điều đó chỉ hàm ý rằng trong khoảng thời gian một hay hai năm ngắn, nhiều chính sách kinh tế sẽ đẩy lạm phát và thất nghiệp đi theo những hướng trái ngược nhau. Bất kể là việc thất nghiệp và lạm phát ban đầu ở mức cao (như đầu những năm 1980) hay thấp (như cuối thập kỷ 1990) hay nằm ở đâu đó giữa hai thái cực, thì các nhà hoạch định chính sách vẫn phải đối mặt với sự đánh đổi này.

Bài viết trên đây là những thông tin giải thích về ý nghĩa của 10 nguyên lý Kinh tế học mà chúng tôi muốn chia sẻ đến bạn đọc. Kiến thức về ngành Kinh tế học khá rộng và bao quát, yêu cầu người học phải có khả năng tổng hợp và phân tích vấn đề tốt. Chương trình cử nhân Kinh tế tai Viện Khoa học và Giáo dục Khai phóng, Đại học VinUni trang bị những kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực kinh tế, kiến thức liên ngành cũng như kiến thức về công nghệ số

Banner footer